Tiêm vắc xin COVID-19 đến đâu, an toàn đến đó, cần thực hiện thế nào?

Cập nhật: 4/12/2021 - Lượt xem: 1751
Kỳ 1: Hạn chế thấp nhất phản ứng sau tiêm qua khám sàng lọc

Đã hơn 10 ngày sau khi triển khai tiêm chủng vắc xin COVID-19, với trên 25 ngàn trường hợp đã hoàn thành mũi tiêm đầu tiên, số lượng các trường hợp phản ứng thông thường ở mức ngang bằng với khuyến cáo của nhà sản xuất, có một số trường hợp phản vệ độ 1, 2 được xử lý ngay, một trường hợp mức độ nặng hơn phải nhập viện. Đến thời điểm hiện tại các trường hợp đều ổn định. Để thực hiện chủ trương của Bộ Y tế “Tiêm đến đâu, an toàn đến đó” những điều chỉnh cần có trong thời gian tới cần thực hiện là gì? 

Phân loại thật kỹ

Với một loại vắc xin dùng công nghệ mới nhất, những gì xảy ra trong cơ thể chúng ta sau khi tiêm chủng vẫn còn chưa được hiểu biết một cách toàn diện. Đặc biệt là khi công nghệ mới này cho đáp ứng miễn dịch rất mạnh và khả năng tạo kháng thể tốt nhưng đi kèm với nó là phản ứng sau tiêm chủng cũng sẽ mạnh mẽ hơn.

Việc cẩn trọng đầu tiên chính là giới hạn nhóm chỉ định tiêm nhằm loại bỏ những trường hợp trùng hợp ngẫu nhiên và những người có cơ địa dị ứng. Có bốn nhóm đối tượng được xác định trong quá trình khám phân loại này bao gồm:

Đối tượng đủ điều kiện tiêm chủng: Là những người trên 18 tuổi hoàn toàn khỏe mạnh và không có tiền sử dị ứng, quá mẫn với bất kỳ tá dược nào được liệt kê trong thành phần của vắc xin.

Đối tượng nên trì hoãn tiêm chủng: Là những đối tượng hiện mắc bệnh lý cấp tính hoặc mạn tính đang tiến triển, người bị suy giảm miễn dịch, ung thư giai đoạn cuối, xơ gan mất bù, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch liều cao có dùng chế phẩm miễn dịch trong vòng 90 ngày hoặc đã bị COVID-19 trong vòng 6 tháng. Những người có tiêm vắc xin khác trong vòng 14 ngày trước cũng nằm trong nhóm này. Giai đoạn này cần thận trọng nên nhóm phụ nữ có thai hoặc cho con bú, người trên 65 tuổi và người có bệnh lý giảm tiểu cầu và/hoặc rối loạn đông máu cũng cần tạm hoãn.

Đối tượng cần thận trọng tiêm chủng: Là những người có tiền sử dị ứng,  người có bệnh lý nền hoặc bệnh mạn tính cần giám sát sức khỏe, người mất tri giác và mất năng lực hành vi. Người có bệnh mạn tính kèm thêm bất thường dấu hiệu sống.

Và đối tượng chống chỉ định: Là người có phản ứng mạnh với liều tiêm trước, phản ứng với các thành phần có trong vắc xin hoặc dị ứng mạnh với nhiều loại tác nhân khác nhau.

Làm thế nào để phân loại được?

Sẽ không thể phân loại được các nhóm đối tượng như trên nếu như công tác khám sàng lọc không được làm chặt chẽ và cẩn trọng. Với phần lớn các trường hợp, việc hỏi tiền sử cũng như đánh giá tình trạng hiện tại sẽ giúp phát hiện những trường hợp bất thường cần lưu ý trước khi quyết định tiêm chủng. Thông qua việc hỏi đã có thể ghi nhận tình trạng các bệnh cấp tính đang mắc phải, đặc biệt là những dấu hiệu có thể nghi ngờ COVID-19. Tiền sử dị ứng thì cần khai thác tỉ mỉ hơn mới có thể xác định được. Tiền sử dị ứng có thể liên quan đến các thành viên khác trong gia đình (bố, mẹ, con, anh chị em ruột…) và các loại dị nguyên  gây dị ứng như côn trùng, thực phẩm, phấn hoa, bụi nhà, hóa chất, mỹ phẩm…đặc biệt là tiền sử dị ứng với vắc xin và bất kỳ thành phần nào của vắc xin, tiền sử dị ứng nặng, bao gồm phản vệ cần phải được liệt kê.

Bên cạnh đó, tiền sử tiêm vắc xin khác trong vòng 14 ngày qua mà quan trọng là các vắc xin phòng COVID-19 không thay thế được cho nhau nên cần khai thác chính xác loại vắc xin và thời gian đã tiêm vắc xin COVID – 19 của các đối tượng đến tiêm lần thứ 2. Ngoài ra, tiền sử bệnh lý và điều trị cũng cần được ghi nhận đầy đủ và rõ ràng như tiền sử mắc COVID-19 hoặc điều trị huyết tương từ người đã được điều trị khỏi COVID-19, tiền sử bệnh nền, suy giảm miễn dịch, ung thư, đang dùng thuốc corticoid, ức chế miễn dịch, tiền sử rối loạn đông máu/cầm máu hoặc đang dùng thuốc chống đông hay đối với phụ nữ cần hõi rõ thông tin có thai, tình trạng thai kỳ hiện tại, hoặc có đang nuôi con bằng sữa mẹ.

Sau đó, việc khám cần thực hiện đúng theo trình tự.

Phát hiện các bất thường về dấu hiệu sống:

 
  • Đo thân nhiệt, huyết áp, đếm mạch tất cả những người đến tiêm.

  •  Đếm nhịp thở và/hoặc SpO2 (nếu có) ở những người có bệnh nền hô hấp.


Quan sát toàn trạng:

  • Đánh giá mức độ tri giác bằng cách hỏi những câu hỏi về bản thân người đến tiêm. Lưu ý những người có bệnh nền nặng nằm liệt giường, mất tri giác, mất năng lực hành vi.

  • Ghi nhận bất kỳ biểu hiện bất thường nào quan sát thấy ở người đến tiêm để hỏi lại về tiền sử sức khỏe.


TS. BS. Phạm Quang Thái - Báo Sức khỏe & đời sống