Dinh dưỡng hợp lý phòng bệnh không lây nhiễm

Cập nhật: 9/11/2020 - Lượt xem: 6192
Dinh dưỡng giữ vị trí hàng đầu như là một yếu tố quyết định chính có thể điều chỉnh được đối với các bệnh mạn tính không lây trong suốt cuộc đời mỗi người. Chế độ ăn uống không hợp lý không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe hiện tại mà còn làm phát triển các bệnh không lây nhiễm sau này.
 

Gánh nặng bệnh tật và tử vong

 

Bệnh không lây nhiễm (còn gọi là bệnh mạn tính không lây) là các bệnh khởi đầu từ thời kỳ trẻ tuổi, tích lũy, tiến triển kéo dài, đòi hỏi việc điều trị có hệ thống và lâu dài, thậm chí cả cuộc đời. Các bệnh này không phải do nguyên nhân nhiễm khuẩn và không lây truyền giữa người với người mà do các hành vi thói quen, lối sống không lành mạnh diễn ra trong khoảng thời gian dài gây ra.

 

Hiện nay, hoạt động phòng chống bệnh không lây nhiễm (KLN) của Việt Nam đang tập trung vào 4 nhóm bệnh chính gồm: Tăng huyết áp (THA) bệnh tim mạch (đột quỵ, suy tim, bệnh mạch vành…), đái tháo đường (ĐTĐ), các bệnh ung thư và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD).

 

Bệnh không lây nhiễm là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, là một trong những thách thức về sức khỏe chủ yếu trong thế kỷ 21. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) trong năm 2016, bệnh KLN gây ra 71% (41 triệu người) trong tổng số 57 triệu ca tử vong trên toàn cầu. Tại Việt Nam, bệnh KLN cũng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Cứ 10 người chết̀ thì có gần 8 người chết do bệnh KLN và chủ yếu do các bệnh tim mạch, ĐTĐ, ung thư và COPD. Năm 2016, Việt Nam có 548.800 ca tử vong, trong đó tử vong do bệnh KLN chiếm 77% và 44% số tử vong do bệnh KLN là trước 70 tuổi.


Ước tính, trung bình mỗi năm nước ta có khoảng 12,5 triệu người bị THA; 3,5 triệu người bị bệnh ĐTĐ, 2 triệu người mắc bệnh tim, COPD và gần 126.000 ca mắc mới ung thư. Mỗi năm ở nước ta có khoảng 115.000 người chết vì ung thư (315 người/ngày). WHO xếp Việt Nam nằm trong 50 nước thuộc top 2 của bản đồ ung thư, ở vị trí 78/172 quốc gia, vùng lãnh thổ khảo sát với tỉ lệ tử vong 110/100.000 dân. Bên cạnh đó, các bệnh KLN còn gây tàn phế nặng nề và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị, theo dõi, chăm sóc lâu dài.

 

Vai trò của dinh dưỡng với bệnh không lây nhiễm

 

Theo WHO, 80% bệnh tim mạch giai đoạn đầu, đột quỵ và ĐTĐ týp 2 và trên 40% ung thư có thể được phòng ngừa được thông qua ăn uống hợp lý, hoạt động thể lực đều đặn, không hút thuốc lá.

 

Cả thiếu và thừa dinh dưỡng đều tác động tiêu cực tới sự phát triển bệnh và nếu phối hợp cả hai thì thậm chí còn tồi tệ hơn. Do vậy, việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng lành mạnh, hợp lý và an toàn trong suốt chu kỳ vòng đời, từ khi chuẩn bị mang thai, tới giai đoạn phát triển bào thai trong tử cung, đến các giai đoạn tiếp theo của cuộc đời đều là quan trọng để dự phòng mắc các bệnh mạn tính không lây. Ngoài ra, dinh dưỡng cũng có tác động tới sự biểu hiện của gen và hình thành bộ gen, từ đó xác định các cơ hội đối với sức khỏe và tính nhạy cảm đối với bệnh tật. Suy dinh dưỡng sớm trong 1000 ngày vàng đầu đời cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính ở các giai đoạn sau của cuộc đời thông qua cơ chế tương tác gen và dinh dưỡng.

Chế độ dinh dưỡng không hợp lý liên quan tới bệnh mạn tính

  • Ăn ít rau và quả: Là nguyên nhân của 1,7 triệu trường hợp tử vong, chiếm 2,8% tổng số tử vong trên thế giới, trong đó có 19% số ung thư dạ dày ruột, 31% các bệnh thiếu máu tim cục bộ và 11% số trường hợp đột quỵ. Hiện nay hơn một nửa dân số trưởng thành Việt Nam ăn thiếu rau, quả.
  • Ăn nhiều thức ăn giàu năng lượng: Bằng chứng khoa học cho thấy thực phẩm chế biến sẵn có nhiều chất béo và đường, làm tăng nguy cơ béo phì và tác hại cũng giống như ăn ít rau và quả chín.
  • Ăn thực phẩm có nhiều chất béo no (có nhiều trong mỡ động vật) và chất béo chuyển hóa (Trans fatty acid – thường có trong thực phẩm chế biến sẵn) làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và bệnh ĐTĐ.

                      
  • Ăn nhiều muối: Lượng muối ăn vào hàng ngày làm tăng nguy cơ của tăng huyết áp, đột quỵ, ung thư dạ dày, suy thận, loãng xương và một số bệnh tim mạch khác. Hiện nay người trưởng thành Việt Nam đang ăn (9,4g/ngày) nhiều gần gấp hai lần mức khuyến nghị.

Dinh dưỡng lành mạnh phòng chống bệnh không lây nhiễm

 

Theo WHO và Tổ chức Lương thực Thế giới, chăm sóc dinh dưỡng để phòng chống bệnh không lây nhiễm cần thực hiện được các nội dung:

  • Cần bắt đầu sớm trong cuộc đời của mỗi người với việc nuôi dưỡng tốt bào thai, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục bú mẹ đến hai tuổi hoặc lâu hơn cùng với ăn bổ sung hợp lý. Chăm sóc dinh dưỡng toàn diện 1000 ngày đầu đời của trẻ để phòng chống suy dinh dưỡng sớm làm thay đổi các quá trình chuyển hóa và gia tăng nguy cơ mắc bệnh mạn tính trong các giai đoạn sau của cuộc đời.

  • Chế độ ăn cần dựa trên các thực phẩm tự nhiên, phối hợp đa dạng nhiều loại thực phẩm, cân đối các nhóm thực phẩm, hạn chế thực phẩm chế biến sẵn và đồ uống ngọt, rượu, bia.

  •  Tăng cường ăn các loại ngũ cốc nguyên hạt, đậu đỗ, các loại hạt.


  •  Tăng cường ăn rau, quả: Cần ăn ít nhất 400g rau, quả và ăn đa dạng các loại rau quả có nhiều màu sắc khác nhau vì có chứa các loại chất dinh dưỡng và dưỡng chất thực vật khác nhau.

  •  Ăn có mức độ các thực phẩm như trứng, sữa, ăn lượng nhỏ thịt đỏ và tăng cường ăn cá và thịt gia cầm nạc.

  • Ăn vừa đủ nhu cầu năng lượng, chất dinh dưỡng để tăng trưởng, phát triển, đáp ứng nhu cầu cho một cuộc sống năng động và lành mạnh trong cả vòng đời, không để bị thừa cân, béo phì hay béo bụng. Lựa chọn thực phẩm có đậm độ năng lượng thấp, chỉ số đường huyết thấp.

Cả thiếu và thừa dinh dưỡng đều tác động tiêu cực tới sự phát triển bệnh và nếu phối hợp cả hai thì thậm chí còn tồi tệ hơn. Do vậy, việc đảm bảo chế độ dinh dưỡng lành mạnh, hợp lý và an toàn trong suốt chu kỳ vòng đời là rất quan trọng để dự phòng mắc các bệnh mạn tính không lây.


Đảm bảo năng lượng từ chất béo dưới 30% tổng năng lượng tiêu thụ. Chuyển từ tiêu thụ các chất béo bão hòa sang chất béo không bão hòa và hướng tới việc loại bỏ chất béo chuyển hóa công nghiệp. Chất béo không bão hòa (có nhiều trong cá, quả bơ và các loại hạt hướng dương, đậu tương, oliu) tốt hơn chất béo bão hòa (có nhiều trong thịt các loại gia súc lớn, từ chế phẩm sữa bò, dê cừu như bơ động vật, dầu cọ, dầu dừa, kem tươi, phomat, mỡ động vật) và chất béo chuyển hóa các loại, bao gồm cả chất béo được tạo ra trong sản xuất công nghiệp (thực phẩm nướng, chiên rán và các loại thực phẩm, đồ ăn vặt chế biến đóng gói sẵn).

Hạn chế lượng đường tự do dưới 10% (tốt hơn là dưới 5%) tổng năng lượng ăn vào: Dưới 50g/ngày (tốt nhất là dưới 25g/ngày). Đường tự do (như sucrose, maltose, glucose, fructose) là những loại đường được nhà sản xuất thêm vào thực phẩm, đồ uống, trong quá trình pha chế, chế biến đồ ăn/uống và đường tự nhiên có trong mật ong, các loạt mật, siro, nước trái cây tươi và nước trái cây cô đặc.

Hạn chế tổng lượng muối ăn vào dưới 5g/ngày bằng cách cho bớt muối, chấm nhẹ tay và giảm ngay đồ ăn mặn, nên sử dụng muối Iốt.

Hạn chế đến mức thấp nhất có thể các tác nhân gây bệnh, độc tố hoặc các yếu tố khác có thể gây bệnh từ thực phẩm (như độc tố vi nấm aflatoxin có trong lạc mốc, dư lượng kháng sinh có trong rau, củ, quả hoặc các loại thịt gia súc, gia cầm, hải sản…).

Kiểm soát cân nặng để duy trì cân nặng nên có ở mức tương đương BMI =21 ở người dưới 50 tuổi và BMI = 22 ở từ 55 tuổi trở lên và không bị béo bụng (vòng eo < 90 cm ở nam và < 80 cm ở nữ).

Duy trì lối sống tích cực thường xuyên hoạt động thể lực mức độ vừa hoặc nặng ít nhất 30 phút mỗi ngày; hạn chế rượu, bia, không hút thuốc lá. Tiêm vắcxin phòng bệnh lây nhiễm có nguy cơ cao như ung thư, viêm gan B, C, Herpes...

TS. BS. Đỗ Thị Phương Hà - Viện Dinh dưỡng